Đối với người Tây Nguyên, Cồng chiêng là một thứ tài sản vô giá, Cồng chiêng được coi là vật thiêng, là phương tiện giao cảm niềm vui nổi buồn của con người với thần linh, với đất trời với tạo vật. Cồng chiêng được xem như một vị thần linh có tiếng vọng ngàn đời trong tâm thức cộng đồng các dân tộc nơi đây từ truyền thống đến hiện đại.
Chính vì vậy mà Cồng chiêng Tây Nguyên đã được định danh là loại hình di sản văn hóa mang đậm dấu ấn thời gian và không gian. Trong đó lưu giữ cả những lớp cắt lịch sử của tiến trình phát triển âm nhạc từ thuở sơ khai. Xuất phát từ một vùng đất hoang sơ với đời sống nông nghiệp nương rẫy, sự đa dạng văn hóa tộc người và trình độ âm nhạc điêu luyện trên nền tảng của tri thức bản địa đã sản sinh ra một giá trị nghệ thuật khí nhạc vô cùng đặc sắc mang tên Cồng chiêng.
Biểu diễn Cồng chiêng ở Tây Nguyên
Cồng Chiêng là loại nhạc khí phổ biến ở vùng Đông Nam Á, nó gắn bó mật thiết với sinh hoạt vòng đời và đời sống tâm linh của các tộc người Bahnar, Êđê, Jrai, Mnông, K’ho, Xđăng, Rơmăm…ở các tỉnh Lâm Đồng, Đắk Nông, Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum. Vùng đất này được coi là cái nôi Cồng chiêng của Đông Nam Á. So với các nơi khác trong khu vực Đông Nam Á, chất liệu của Cồng chiêng Tây Nguyên được chế tác bằng tre nứa hoặc bằng đồng, có cái pha vàng, bạc hoặc đồng đen, lấy thang bồi âm tự nhiên làm cơ sở để thiết lập thang âm.
Nghệ thuật diễn tấu Cồng chiêng Tây Nguyên được thể hiện rất đa dạng và độc đáo. Tính độc đáo của Cồng chiêng Tây Nguyên thể hiện ở trình độ điêu luyện của người diễn tấu trong việc áp dụng những kỹ năng đánh Cồng chiêng và kỹ năng chế tác. Nghệ nhân có thể dùng theo dàn, theo bộ Cồng chiêng. Mỗi bộ có từ 2 đến 12 chiếc, cũng có bộ 18 đến 20 chiếc như bộ chiêng của người Jrai, hoặc dùng đơn lẻ. Dàn Cồng chiêng Tây Nguyên được tổ chức như một dàn nhạc có thể diễn tấu những bản nhạc đa âm với các hình thức hòa điệu khác nhau. Điều đặc biệt trong dàn nhạc này mỗi người chỉ đánh một chiếc cồng, hoặc một chiếc chiêng (trừ chiêng Arap của người Jrai).
Khi nghe tiếng Cồng chiêng, chúng ta có thể phát hiện các tầng giai điệu được đan xen và đối ứng với nhau bên cạnh phần đệm hòa âm trong các bài bản liên quan đến lễ hội cúng bến nước, lễ hội mừng được mùa, lễ hội cầu mưa, nghi thức đón khách hay kết nghĩa... Âm thanh mở đầu của tiết tấu Cồng chiêng thường là chuỗi âm thanh tạo nên một tổng phổ âm nhạc vừa tinh tế, vừa đầy đặn và sâu lắng. Điều này cho thấy, Cồng chiêng Tây Nguyên là sự hòa quyện giữa hai loại nghệ thuật âm nhạc chủ điệu và đa điệu theo lối tư duy hòa âm được hình thành từ chính bản chất bồi âm đa thanh của tự nhiên. Đặc tính hợp tấu và hòa tấu của âm nhạc đã xác định tính diễn xướng tập thể của cồng chiêng qua mối quan hệ tương tác với cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên trong dòng chảy lịch sử.
Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, đặc thù của Cồng Chiêng Tây Nguyên được biểu hiện qua tính đa dạng, tính thiêng, sợi dây liên kết giữa con người với yếu tố tâm linh xuất hiện trong đời sống con người từ thuở thiếu thời đến khi nhắm mặt lìa trần qua sinh hoạt thường ngày, trên nương rẫy, trong thời bình, chiến tranh, sự tinh tế, chính xác, đặc biệt qua cách chỉnh âm và tạo ra âm thanh (dùi gõ bằng gỗ cứng – gỗ mềm – gỗ có bọc da, tay mặt tạo ra thanh – độ cao – màu âm khác nhau tùy nơi gõ, tay trái có thể tham gia biểu diễn bằng cách bóp vành Cồng làm thay đổi màu âm).
Biên chế của dàn cồng chiêng Tây Nguyên cũng rất đa dạng, chức năng của mỗi loại Cồng trong khi biểu diễn mà còn liên quan đến tổ chức xã hội và triết lý sống của dân tộc trong vùng đó, như chia ra chiêng mẹ, chiêng cha, chiêng con, chiêng cháu – nhắc lại xã hội của các cộng đồng thiên về Mẫu hệ, nên chiêng mẹ được xem là quan trọng trước chiêng cha – chiêng mẹ, chiêng cha phát ra thanh âm trầm hơn làm nền cho bản nhạc, chiêng con cách khoảng đều nhau như những cây cột dựng lên nhà, chiêng cháu di chuyển, tạo ra những âm thanh có độ cao và phối hợp thành giai điệu giống như kèo và nóc của nhà.
Ở Việt Nam khi nói đến Cồng chiêng, người ta thường liên tưởng ngay đến vùng đất Tây Nguyên với bối cảnh nhà rông, nhà dài bập bùng ngọn lửa và nghe ấm áp giọng kể khan. Cồng chiêng Tây Nguyên đã được định danh là loại hình di sản văn hóa mang đậm dấu ấn thời gian và không gian. Trong đó lưu giữ cả những lớp cắt lịch sử của tiến trình phát triển âm nhạc từ thuở sơ khai.
Bá Thăng
- Công bố Quyết định của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đắk Lắk về công tác cán bộ (02/05/2024, 10:09)
- Bế mạc Hội khoẻ Phù Đổng toàn quốc lần thứ X, năm 2024 Khu vực IV (29/04/2024, 08:26)
- Trao giải 129 mẫu cà phê đạt tiêu chuẩn cà phê đặc sản năm 2024 (28/04/2024, 21:00)
- Đắk Lắk sẵn sàng đón du khách dịp cao điểm lễ 30/4-1/5 (27/04/2024, 16:42)
- Xúc tiến xuất khẩu sản phẩm cà phê và gia vị Việt Nam với hệ thống thương vụ Việt Nam ở nước ngoài (26/04/2024, 16:00)
- Hội nghị lấy ý kiến góp ý các dự án luật do Bộ Công an chủ trì soạn thảo trình tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV (26/04/2024, 15:03)
- Phát động Tháng Công nhân – Tháng hành động về An toàn, vệ sinh lao động năm 2024 (26/04/2024, 14:40)
- Lễ viếng Nghĩa trang liệt sĩ tỉnh Nhân dịp chào mừng kỷ niệm ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (26/04/2024, 14:17)
- Bộ Công Thương tìm giải pháp xúc tiến thương mại và phát triển xuất nhập khẩu vùng Tây Nguyên (26/04/2024, 12:29)
- Đắk Lắk là tỉnh đầu tiên của Việt Nam có chứng nhận vùng sản xuất cà phê tuân thủ quy định EUDR (25/04/2024, 17:30)
- Kết quả Tuần thi thứ năm Cuộc thi tìm hiểu “Lịch sử 120 năm hình thành, phát triển tỉnh Đắk Lắk” (25/04/2024, 15:16)